Làm hoàng đế Tống_Quang_Tông

Việc chính trị

Thọ hoàng hạ chiếu lập Nguyên phi Lý thị làm hoàng hậu. Hậu là con gái của Tiết độ sứ Khánh Viễn Lý Đạo. Lúc hậu chào đời, có con phượng hoàng đen đến đậu trước doanh tiền, nên đặt tên là Phượng Nương[8]. Có đạo sĩ Hoàng Phủ Thản khi được Hậu thì cho rằng người con gái này về sau sẽ là mẫu nghi thiên hạ. Khi Thản vào cung, gặp mặt Tống Cao Tông và nói về Phượng Nương, bảo hậu có tướng quốc mẫu. Thượng hoàng tin là thực, liền cưới về làm phi cho Cung vương. Bà được phong làm Định Quốc phu nhân. Khi Cung vương được lập làm hoàng thái tử, hậu trở thành thái tử phi. Hậu có tướng mạo xinh đẹp, nhưng tính tình thì chua ngoa đố kị; ngay trước mặt Cao Tông và Hiếu Tông còn dám nói chuyện đúng sai, có khi còn nói tố cáo những điều sai trái của thái tử.

Đầu năm 1190, bởi lời gièm của Hà Đạm, Quang Tông miễn chức Tả thừa tướng của Chu Tất Đại, dùng Lưu Chính làm Tả thừa tướng, Vương Lận làm Khu mật sứ, Cát Bật làm Tham chính, Hồ Tấn Thần làm Thiêm thư Khu mật viện[9]. Bốn vị đại thần dốc lòng phò chính, công việc chính trị vẫn ổn định như trước. Không lâu sau trung thừa Hà Đạm đàn hặc khiến Vương Lận bị bãi, lại dùng Cát Bật lên thay, Hồ Tấn Thần giữ chức Tham chính.

Tháng 6 ÂL năm 1192, dùng thượng thư bộ Lễ Trần Quỳ làm đồng tri Xu mật viện. Bấy giờ Lý hoàng hậu kiêu căng và xa xỉ, ép Quang Tông phong tổ tiên ba đời của mình làm vương, xây gia miếu ở kinh thành, quy mô tráng lệ, vệ binh cũng cắt xén từ thái miếu mà ra. Cuối năm đó, Hậu về thăm gia miếu, tiếp đón than thuộc Lý thị, ban thưởng 26 người; phong 170 người làm sử thần, đến môn khách họ Lý cũng được bổ làm quan. Tháng 2 năm 1193, dùng Cát Bật làm Hữu thừa tướng, Trần Quỳ làm Tham chính, Hồ Tấn Thần tri Xu mật, Triệu Nhữ Ngu làm Đồng tri[10]. Đến thu, thăng Nhữ ngu làm Tri Xu mật, Dư Đoan Lễ làm Đồng tri.

Mâu thuẫn giữa hai cung

Từ khi Quang Tông lên ngôi, Lý hoàng hậu càng được thế chuyên quyền bất pháp, lại có bọn hoạn giả trong cung làm tai mắt, tha hồ tác oai tác quái. Vào cuối năm 1191, Quang Tông vì e ngại thế lực của Lý hậu nên có ý giết hết bọn nội thị để hậu cung được yên. Nhưng lũ nội thị đã sớm đánh hơi được chuyện đó, nên xin Lý hậu bảo toàn cho chúng, do vậy Quang Tông không làm gì được. Bọn nội thị lại bày mưu li gián tam cung để dễ bề lộng quyền. Nhân lúc Quang Tông mắc bệnh, Thọ hoàng tìm ngự y bào chế thuốc bổ, chờ khi Quang Tông đến vấn an thì bắt uống. Bọn nội thị thấy thế bèn gièm pha với Lý hậu rằng

Thái thượng hợp biết bao nhiêu là thuốc, xa giá đến thì bắt uống. Uống vào nhỡ xảy ra việc gì thì tông miếu xã tắc tính thế nào?[9]

Hậu đem việc đó để trong lòng. Nhân một hôm trong cung có yến tiệc, Hậu nhân lúc Quang Tông đang vui, mới tâu xin lập hoàng tử Gia vương Khoáng làm thái tử. Thọ hoàng biết chuyện có ý không vừa lòng, bảo

Nạp thiền chưa tới một năm mà đã lo lập thái tử.

Lý hậu đáp

Thiếp được hoàng thất đem sính lễ tới mà rước về. Gia vương là con do đích thân thiếp sanh ra, cớ gì mà không thể lập.

Thọ hoàng rất tức giận, mắng Lý hậu. Hậu ra về, rồi khóc lóc với Quang Tông rằng Thọ hoàng có ý phế lập[11]. Quang Tông có ý nghi hoặc, từ đó không muốn vào triều yết cung Trùng Hoa nữa. Một hôm nữa, Quang Tông rửa mặt, thấy cung nữ tay bưng hộp vàng đứng hầu. Quang Tông thấy đôi bàn tay của cô ta trắng nõn nà, rất ưa thích. Lý hậu nghe được, hôm sau sai nội thị đem hộp vàng đến dâng, Quang Tông mở ra thì hỡi ơi, đó là đôi bàn tay của cung nhân hôm trước[9]. Hoàng quý phi trong cung được sủng ái; Hậu nhân lúc Quang Tông đang trai giới ở thái miếu, triệu Quý phi đến mà đánh 100 roi, đến nỗi quý phi phải chết. Lý hậu phao tin rằng quý phi lâm bệnh mà qua đời[9]. Lúc đó Quang Tông đang tế thái miếu, thì trên đàn bỗng dưng nổi mưa gió, lễ phục của vua và bá quan ướt hết, nến cũng không thắp lên được nên phải bãi buổi tế. Lại nghe tin quý phi qua đời, Quang Tông vốn bệnh chưa khỏi hẳn, đến đó thì càng trầm trọng hơn, từ đó không lên triều. Nhân đó, Lý hậu quyết định việc triều chính, tha hồ làm càn. Thọ hoàng một hôm đến thăm Quang Tông, thấy hành vi của Lý hậu, rất tức giận và trách mắng không thôi, Hậu do vậy càng hận Thọ hoàng.

Ngày Tân Tị tháng 3 ÂL năm thứ ba (1192), Quang Tông mới đỡ bệnh và lên điện Diên Hòa nghe chính. Trước kia vào những dịp lễ hay tết đều thiết triều ở cung Trùng Hoa, nhưng vì Quang Tông mắc bệnh nên Thọ hoàng cho miễn. Đến đây từ tể phụ trở xuống đều xin cử hành lại, Quang Tông không theo. Đến lúc quần thần liên danh cùng tấu có người còn quỳ trước điện mà khóc; Quang Tông mới bằng lòng nhưng rốt cục lại không đi. Mãi đến tháng sau, Quang Tông mới đến triều yết cung Trùng Hoa; tháng 9 lại đến một lần nữa. Đến dịp tết Trường Chí, Thừa tướng Lưu Chính tấu xin về cung Trùng Hoa, Quang Tông nói để hôm sau. Hôm sau cũng chả thấy Quang Tông, Lưu Chính đành cùng trăm quan đến chúc mừng Thọ hoàng rồi về. Thượng thư bộ Binh La Điểm, Cấp sự trung Vưu Mậu, Trung thư xá nhân Hoàng Thượng, ngự sử Hoàng Độ... đều dâng sớ cầu xin, Quang Tông không theo[9]. Mãi đến khi Thượng thư bộ Lại Triệu Nhữ Ngu đích thân đến xin, Quang Tông mới bằng lòng. Hôm sau thì Quang Tông cùng Lý hậu đến cung Trùng Hoa. Lần này cha con gặp mặt thật vui vẻ hòa hợp, mối rạn nứt có vẻ như đã được hóa giải. Cuối năm đó, Quang Tông lại đến cung Trùng Hoa dâng Thượng hoàng ngọc điệp và Thánh chánh hội yếu.

Tết nguyên đán năm thứ tư Thiệu Hi (1193), Quang Tông triều yết cung Trùng Hoa, hoàng hậu cùng đi theo. Tháng 9 ÂL, nhân tiết Trọng Minh (tức ngày sinh Quang Tông), bách quan lại xin đến cung Trùng Hoa, đế không nghe[10]. Cấp sự trung Tạ Thâm Phủ lại tâu xin với lời lẽ thống thiết. Quang Tông hiểu ra, mới truyền lệnh cho xe đưa đến cung Trùng Hoa. Nhưng khi đế vừa bước tới ngự bình thì Lý hậu lưu lại, nói

Trời lạnh, quan gia về cung uống rượu.

Trung thư xá nhận Trần Phó Lương chạy theo níu áo Quang Tông, xin đừng về cung. Lý hậu quát mắng một hồi rồi truyền chỉ không đến cung Trùng Hoa nữa, bách quan đành phải ra về. Đến tháng 10, thượng thư bộ Công Triệu Ngạn Du vào gặp Thọ hoàng. Thọ hoàng nói

Trẫm từ lúc thu lương đến nay chưa thấy mặt hoàng đế. Bọn các khanh vào triều kiến nhớ tâu xin việc này.[10]

Hôm đó là ngày khánh tiết, Quang Tông lấy cớ có bệnh không đến. Hữu thừa tướng Cát Bật suất bách quan đến chúc mừng. Khi đó Quang Tông đã lâu không triều yết Thọ hoàng, từ tể tướng trở xuống đều dâng sớ tự trách. Gia vương phủ dực thiện Hoàng Thường và bí thư lang Bành Quy Niên xin đuổi lũ nội thị Dương Thuấn Khanh, Trần Nguyên; Quang Tông không trả lời. Có Thái học sinh Uông An Nhân dẫn đầu 208 người xin Quang Tông tới cung Trùng Hoa đều không được báo.

Từ chối chủ táng

Mãi đến tháng 12 năm 1194, Quang Tông mới lại về cung Trùng Hoa, sang tết nguyên đán năm tiếp theo lại đến triều yết một lần nữa, và đó cũng là lần cuối cùng[10].

Ngày Quý Dậu tháng 1 ÂL, Thọ hoàng bắt đầu cảm thấy không khỏe. Sang tháng 4 ÂL, bệnh tình đã trở nặng mà không thấy Quang Tông đến thăm. Quần thần nhiều lần liên danh cầu xin cũng chẳng ăn thua, sau đó Quang Tông còn cùng Lý hậu đi chơi vườn Ngọc Tân mặc cho thượng hoàng sống chết thế nào[10]. Thượng thư bộ binh La Điểm xin về cung Trùng Hoa, Trung thư xá nhân Bành Quy Niên dập đầu cầu xin đến chảy máu, Quang Tông vẫn không theo. Về sau quần thần lại liên danh cầu xin, Quang Tông mới chấp nhận nhưng cuối cùng lại không đi. Tháng 5 ÂL, Thọ hoàng bệnh tình nguy kịch, rất muốn gặp Quang Tông, đã sai tả hữu đến triệu nhiều lần. Lưu Chính dẫn đầu trăm quan cầu xin, Quang Tông phất tay áo bỏ đi vào trong cung. Hai hôm sau Lưu Chính lại cầu xin cũng không được, bèn cùng trăm quan ra Chiết Giang đình chờ tội, Quang Tông chẳng thèm để ý. Thọ hoàng được tin, triệu Hàn Thác Trụ (cháu rể của thái hậu) vào hỏi chuyện và đồng ý cho Thác Trụ ra triệu mọi người vào thành[10]. Cuối cùng La Điểm, Bành Quy Niên, Hoàng Thường... thuyết phục được Quang Tông cử Gia vương Khoáng đến thăm hỏi Thọ hoàng. Gia Vương đến nơi, Thọ hoàng tỏ ra xúc động, nước mắt chảy dài.

Lúc này Cát Bật đã bị bãi tướng, Lưu Chính một mình nắm quyền. Đêm Mậu Tuất tháng 6 ÂL năm Thiệu Hi thứ 5 (28 tháng 6 năm 1194), Thọ hoàng mất ở cung Trùng Hoa. Nội thị trong cung Trùng Hoa báo việc cho Lưu ChínhTriệu Nhữ Ngu. Hôm sau Quang Tông thiết triều, Nhữ Ngu tấu việc Thượng hoàng băng và xin hoàng thượng đến cung Trùng Hoa chịu tang. Quang Tông chuẩn y, nhưng mãi đến quá trưa vẫn không ra ngoài. Lưu Chính, Triệu Nhữ Ngu cùng tới cung Trùng Hoa lo việc tang lễ. Nhưng Quang Tông không đến thì không có người chủ tang, họ bèn mời thái hậu Ngô thị đứng ra làm chủ, phát tang ở điện Thái Cực.

Thoái vị và qua đời

Quang Tông hạ chiếu tôn thái hậu làm thái hoàng thái hậu, Thọ Thành hoàng hậu làm hoàng thái hậu, nhưng vẫn không ra ngoài. Lưu Chính bàn với Diệp Thích xin để cho Gia vương chấp chánh để yên lòng dân[10]. Lưu Chính bằng lòng, suất phụ thần đến tâu xin. Đến lần tâu thứ sáu, Quang Tông mới phê hai chữ rất tốt. Tể chấp xin phê rõ ràng hơn, Quang Tông phê thêm đã mấy năm nay, chỉ muốn an nhàn. Lưu Chính đọc xong rất hoảng hốt, bàn với Triệu Nhữ Ngu. Chính muốn thái tử giám quốc, Nhữ Nhu bàn rằng Quang Tông nên nhường ngôi. Lưu Chính cả sợ, bèn giả bệnh để xin nghỉ. Lưu Thừa tướng đi rồi, nhân tình bất an. Một hôm Quang Tông lên triều, bỗng nhiên ngã lăn xuống đất rồi bất tỉnh. Triệu Nhữ Ngu cùng Tri Cáp Hàn Thác Trụ bàn việc nội thiện. Sau đó Thác Trụ vào tâu với thái hoàng thái hậu, Thái hoàng không cho. Nhưng có nội thị Quan Lễ cũng thuyết phục hết lời, thái hoàng thái hậu mới chịu. Quan Lễ báo với Thác Trụ rằng ngày mai sáng sớm thái hoàng thái hậu sẽ buông rèm chấp chính. Thác Trụ báo với Nhữ Ngu. Nhữ Ngu mời thêm Trần Quỳ, Dư Doan Lễ đến gặp, sai điện soái Quách Cảo nhân đêm tối đem binh chia ra bảo vệ đại nội nam bắc, quan lễ sử Phó Xương được lệnh bí mật làm hoàng bào. Ngày hôm sau, quần thần có mặt đông đủ, Gia vương cũng mặc áo tang đến. Triệu Nhữ Ngu cùng trăm quan đến gặp thái hoàng thái hậu đang ngồi trong rèm, xin để Gia vương lên ngôi hoàng đế. Chiếu viết

Hoàng đế có bệnh, đến nay vẫn không thể chịu tang, từng đã ghi ngự bút muốn lui về nghỉ ngơi. Hoàng tử Gia vương Khoáng lên ngôi hoàng đế. Tôn hoàng đế là thái thượng hoàng đế, hoàng hậu là thái thượng hoàng hậu, dời sang cung Thái An.

Thái hoàng thái hậu đồng tình. Bọn Nhữ Ngu lại xin rằng từ rày về sau sẽ tâu việc với tự quân, xin Thái hoàng thái hậu làm chủ giải quyết hiềm nghi giữa hai cung cha con. Thái hoàng thái hậu lệnh Ngữ Nhu lập Gia vương làm Tân đế. Gia vương lên ngôi, tức là Tống Ninh Tông, tôn Quang Tông và Lý hậu là Thái thượng hoàng đế, Thái thượng hoàng hậu. Tháng 7 năm 1200, Thái thượng hoàng hậu qua đời, thụy là Từ Ý. Hai tháng sau, ngày 17 tháng 9, Thái thượng hoàng cũng giá băng, miếu hiệu là Quang Tông. Quang Tông hoàng đế ở ngôi 5 năm, làm Thái thượng hoàng 6 năm, thọ 54 tuổi[4][12]. Quang Tông đồng thời cũng là vị Thái thượng hoàng cuối cùng của Nam Tống nói riêng và nhà Tống nói chung.